Chữ Quốc ngữ là một loại chữ viết tiếng Việt, được ghi bằng tập hợp các chữ cái Latinh và dấu phụ được dùng cùng với các chữ cái đó.
Lâu nay, những người yêu tiếng Việt bình thường và một số tài liệu khi nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt – Bồ – La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ.
Căn cứ vào những tài liệu viết từ năm 1621 còn lưu giữ, chữ quốc ngữ, tức chữ An Nam viết bằng mẫu tự Latin, có thể được sáng tạo năm 1620 hoặc trước đó một chút.
Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, các thương buôn Bồ Đào Nha có mặt hầu như khắp thế giới. Theo chân họ là những nhà truyền giáo, phần lớn là người Bồ và người Ý, tháp tùng truyền đạo ở những vùng đất mới.
Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính thì trong số 145 giáo sĩ thuộc 17 quốc tịch đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615-1788, có đến 74 người Bồ Đào Nha, 30 người Ý.
Dòng Tên (Jesu) của đạo Thiên Chúa là dòng tu đi truyền đạo thời kỳ ấy. Theo luật của dòng, mỗi khi đến vùng đất mới phải học tiếng địa phương, và với tài năng riêng từng người, họ đã Latin hóa tiếng nói và chữ viết địa phương để những người theo đạo có thể đọc được những kinh sách của đạo.
Thứ chữ Latin này được truyền lại cho các giáo sĩ đến sau. Đây là phương thức mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Brasil… trong các thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng ở Viễn Đông, dòng tu này thiết lập một trụ sở lớn và lâu dài ở Macau để làm nơi đi và đến cho các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ 17, năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Đàng Trong và lần lần họ học tiếng Việt. Sau đó, các giáo sĩ này đã bắt tay vào việc Latin hóa chữ Việt.
Tài liệu viết tay của giáo sĩ João Roiz (người Bồ) viết năm 1621 đã có các chữ quốc ngữ ban đầu như An Nam (Việt Nam tức Đàng Trong. Thời điểm này nước ta chưa có vùng đất Nam Bộ), Sinoa (xứ Hóa tức Thuận Hóa), unsai (ông sãi), Cacham (Kẻ Chàm, sau này là Thanh Chiêm), ungue (ông nghè)…
Còn những chữ Việt trong bản tường trình của Gapar Louis (người Bồ) viết năm 1621 cũng đã có chữ ungué (ông nghè), bancô (bàn cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Xứ Đàng Trong, đến Đàng Trong cùng với Francesco de Pina thành lập trú sở Nước Mặn (Bình Định) năm 1618, trong tác phẩm viết năm 1621 đã có những chữ: Tunchim (Đông Kinh, tức Hà Nội), Lai (Lào), Ainam (Hải Nam), kemoi (kẻ mọi, xứ mọi, Tây Nguyên), Quanguya (Quảng Nghĩa), Quignin (Qui Nhơn), dàdèn lùt (đã đến lúc), nayre (nài), doij (đói), chià (trà), sayc kim (sách kinh), cò (có). Cũng năm 1621, giáo sĩ Bozumi viết các chữ: onsaij (ông sãi), Quanghia (Quảng Nghĩa), Nuoecman (Nước Mặn), da an nua (dạ ăn nữa)…
Như vậy, tới năm 1621, việc Latin hóa tiếng Việt vẫn chưa có dấu thanh. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, viết năm 1626 đã thấy xuất hiện dấu thanh. Dĩgcham (Dinh Chàm), Núocman (Nước Mặn), Sinúa (xứ Hóa), ondedóc (ông đề đốc), nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt).
Và di cảo của Pina vừa tìm thấy ở Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha giữa năm 2018 thì chữ quốc ngữ đã có dấu như ngày nay. Tài liệu này trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7-2018.
Như vậy, có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời có một quá trình dài từ năm 1618 cho đến 1625 với sự hợp tác của nhiều người chứ không chỉ một người. Và đa số “tác giả” của chữ quốc ngữ đều là người Bồ Đào Nha, người Ý cùng với một số người Việt theo đạo Thiên Chúa góp sức.
Và người được xác định “giỏi tiếng Việt nhứt” và có công lớn nhứt trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha.
Francesco de Pina đến Hội An đầu năm 1617, thành lập trú sở Nước Mặn năm 1618, rồi thành lập trú sở Thanh Chiêm (tức Kẻ Chàm, Dinh Chàm) năm 1623. Từ năm 1619, Pina đến cư trú tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết đuối trên biển Cù Lao Chàm do vướng áo chùng không bơi được khi thuyền lật.
Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ Thánh Andre), thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đây là nhà thờ do chính ông thành lập khi đến cư trú tại Thanh Chiêm và là nơi trú ngụ của nhiều giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ.
Sau khi ông mất, một học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624, đã ôm tất cả những di cảo của thầy mang về Macau vào năm 1626. Tại Macau thuở ấy còn có hai giáo sĩ cũng chăm chú nghiên cứu chữ quốc ngữ và đã soạn thảo hai cuốn tự điển Việt-Bồ-La và Bồ-Việt.
Đó là hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cư trú ở Macau gần 10 năm. Đáng tiếc là công trình của họ chưa kịp công bố thì tháng 2-1646 Gaspar mất trên đường biển đi đến nước ta và sau đó một năm thì Barbosa cũng mất vì bệnh.
Trong lời nói đầu cuốn Tự điển Việt – Bồ – La của mình, Đắc Lộ có nhắc đến việc “tham khảo” tài liệu của hai giáo sĩ trên, cho thấy Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới.
Điều đáng tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy hai cuốn tự điển của Gaspar và Barbosa đã viết. Rất mong số phận của nó giống như cuốn tự điển của Bá Đa Lộc, tưởng đã cháy mất trong một trận hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được tìm thấy vào thập niên 1980.
Chữ quốc ngữ có thể được biểu thị trong ASCII dựa trên quy ước như VIQR. Trước khi Unicode được dùng rộng rãi, các phông chữ TCVN3, VNI, và VISCII cũng đã được dùng để biểu thị tiếng Việt. Ngày nay UTF-8 là mã hoá được dùng rộng rãi trên máy tính cho tiếng Việt.
Nhiều bàn phím máy tính không hỗ trợ việc nhập trực tiếp các ký tự tiếng Việt. Điều này dẫn đến sự ra đời của các phần mềm cho phép thực hiện các phương pháp nhập ký tự tiếng Việt theo quy ước như Telex, VIQR hay VNI.
Nguồn: Wikipedia, báo Tuổi Trẻ
Cộng tác viên.